Lắt léo chữ nghĩa: Nguồn gốc thành ngữ “Thanh mai trúc mã”

admin

Rất tiếc là một số trong những tư liệu giờ Việt đang được lý giải ko đúng chuẩn về kể từ vựng và xuất xứ của trở thành ngữ này.

Có tư liệu lý giải rằng thanh mai (青梅) là mai xanh xao. Vấn đề này khiến cho người gọi nghĩ về “mai” là cây hoa mai ở VN, tương tự động như mai vàng, mai tứ quý, mai chiếu thủy… (thuộc chi Ochna, rightia…). Chính xác thì “thanh mai” rất cần phải hiểu là “mơ xanh” nằm trong chi Prunus (chi Mận mơ).

Ở Trung Quốc, cây mơ (Prunus mume) đem white color, đỏ ửng, hồng, tía và lục nhạt… Loại white color gọi là “lục ngạc mai” (綠萼梅). Trong Hồng Lâu Mộng đem câu “Bạch mai lãn phú phú hồng mai” (白梅懶賦賦紅梅): Hoa mơ Trắng biếng vịnh (lại) vịnh hoa mơ đỏ ửng. Còn đem những loại màu xanh da trời gọi là thanh mai (青梅), nhất là những loại nằm trong chi Vatica, ví như Quảng Tây thanh mai (Vatica guangxiensis), Bản hấp thụ thanh mai (Vatica xishuangbannaensis)…

Nhìn công cộng, kể từ 梅 (méi) phiên âm Hán Việt là “mai”, tuy vậy cần thiết hiểu là nói đến cây mơ ở Trung Quốc và VN (phân phụ thân nhiều điểm ở miền Bắc).

Trong Hán ngữ, xét về đại kể từ tham lam chiếu thì thanh mai dùng để làm chỉ nhỏ xíu gái (Thanh mai đại chỉ phái đẹp hài/青梅代指女孩). Trúc mã (竹馬) là ngựa fake, ngựa loại nghịch ngợm thực hiện bởi vì tre, trúc.

Bài Trường Can hành của Lý Bạch nói đến song trai gái quen thuộc nhau kể từ thuở còn thơ, năm 14 tuổi tác cô nàng lấy chàng trai này thực hiện ông chồng. Năm 16 tuổi tác, người bà xã con trẻ ghi nhớ ông chồng đang được không ở gần nên kể từ thôn Trường Can nường tiếp cận Trường Phong Sa đón ông chồng. Bài này còn có những câu hồi ức thời con trẻ con cái, tương quan với trở thành ngữ Thanh mai trúc mã: “Lang kỵ trúc mã lai, Nhiễu sàng lộng thanh mai, Đồng cư Trường Can lí, Lưỡng tè vô hiềm sai” (Chàng cưỡi ngựa tre cho tới, Đi xung quanh sàn giếng hái mơ xanh xao, Cùng sinh sống ở thôn Trường Can, Hai đứa còn ngây thơ). Có người dịch chữ sàng (床) là “cái giường”. Điều này sẽ không đúng chuẩn, chính vì sàng (床) là loại sàn bắc bên trên giếng nhằm nâng loại con cái cù kéo nước.